Kết quả đạt được

Liên kết website

Bệnh Bại liệt
Ngày đăng: 30/09/2014   |  
        

 

Năm 2000, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ở khu vực Tây Thái Bình Dương và Việt Nam đã công bố loại trừ được bệnh bại liệt. Tuy nhiên, do còn nhiều nước trên thế giới vẫn chưa thanh toán được bệnh bại liệt và trên thực tế, mặc dù một số bệnh truyền nhiễm đã công bố loại trừ khỏi cộng đồng nhưng sau một thời gian vắng bóng chúng có thể quay trở lại khi miễn dịch trong cộng đồng giảm xuống ở mức độ thấp nên nguy cơ bùng phát dịch Bại liệt là điều không thể lường trước được. Vì vậy, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo việc phòng bệnh bằng vaccine cho trẻ em cần được tiếp tục thực hiện.

1.   Đặc điểm của bệnh:

Bệnh bại liệt (Poliomyelitis) là một bệnh nhiễm virus cấp tính lây truyền theo đường tiêu hoá do virus Polio gây nên, có thể lan truyền thành dịch. Virus Polio sau khi vào cơ thể sẽ đến hạch bạch huyết, tại đây một số virus xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương, gây tổn thương ở các tế bào sừng trước tủy sống và tế bào thần kinh vận động của vỏ não.

 

Hình 1. Virus Polio dưới kính hiển vi điện tử

Bệnh có biểu hiện lâm sàng như sau:

-  Thể liệt mềm cấp điển hình: chiếm 1% với các triệu chứng sốt, chán ăn, nhức đầu, buồn nôn, đau cơ các chi, gáy và lưng, dần dần mất vận động dẫn đến liệt không đối xứng. Mức độ liệt tối đa là liệt tủy sống, liệt hành tủy dẫn đến suy hô hấp và tử vong. Liệt ở chi, không hồi phục làm bệnh nhân khó vận động hoặc mất vận động;

-   Thể viêm màng não vô khuẩn: Sốt, nhức đầu, đau cơ, cứng gáy;

-  Thể nhẹ: Sốt, khó ngủ, nhức đầu, buồn nôn, nôn, táo bón, có thể phục hồi trong vài ngày;

-  Thể ẩn, không rõ triệu chứng là thể thường gặp, thể này cũng có thể chuyển biến nguy hiểm.

 

Hình 2. Sự tắc nghẽn động mạch tủy sống trước thắt lưng do virus Polio

2. Nguồn truyền nhiễm:

- Là bệnh nhân ở các thể lâm sàng và người lành mang virus bại liệt Polio. Họ đào thải rất nhiều virus bại liệt theo phân làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm;

- Thời kỳ ủ bệnh: Từ 7-14 ngày, đối với các trường hợp có dấu hiệu liệt thực thể. Tuy nhiên thời kỳ ủ bệnh có thể dao động từ 3-35 ngày;

- Thời kỳ lây truyền: Chưa xác định, nhưng có thể kéo dài trong thời gian virus còn tồn tại trong cơ thể và đào thải ra ngoài. Sau khi xâm nhập, virus có trong dịch tiết hầu họng sau 36 giờ, trong phân sau 72 giờ. Ở trong phân, virus thường tồn tại từ 3-6 tuần hay lâu hơn. Thời gian lây truyền có thể từ 7-10 ngày trước khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng.

3. Phương thức lây truyền:

Lây truyền từ người sang người, chủ yếu là qua đường phân - miệng. Virus bại liệt chủ yếu từ phân ô nhiễm vào nguồn nước, thực phẩm rồi vào người qua đường ruột. Cũng có khi lây truyền qua đường hầu họng. Không bao giờ lây nhiễm qua côn trùng trung gian.

4. Tính cảm nhiễm và miễn dịch:

- Tỷ lệ mắc bại liệt cao nhất ở trẻ dưới 3 tuổi, tỷ lệ này càng thấp ở người tuổi càng lớn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỷ lệ mắc bệnh ở lứa tuổi trên 15 tuổi tăng lên rõ rệt. Đa số trẻ đang bú mẹ sẽ có miễn dịch do mẹ truyền sang nên nếu có nhiễm virus thì cũng không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt và ít để lại di chứng;

- Khả năng đáp ứng miễn dịch sau phơi nhiễm sẽ tồn tại suốt đời, kể cả mắc bệnh thể ẩn. Vì vậy sẽ không bị bệnh lần 2 với cùng một týp virus;

- Trẻ nhỏ được thừa hưởng đáp ứng miễn dịch của mẹ truyền qua. Tuy nhiên, Vaccine bại liệt nếu được sử dụng đúng qui cách và áp dụng rộng rãi ở cộng đồng sẽ để lại miễn dịch lâu bền, góp phần quan trọng trong công tác loại trừ bệnh này.

5. Các biện pháp phòng ngừa:

* Giữ gìn vệ sinh:

Cần tuyên truyền giáo dục cộng đồng về vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân: vì bệnh bại liệt do virus Polio thâm nhập qua đường ruột nên tuyên truyền tập trung vào vệ sinh nguồn nước và vệ sinh an toàn thực phẩm.

* Sử dụng vaccine:

- Vaccine sống giảm độc lực (OPV: Oral Polio Vaccine) còn được gọi là vaccine Sabin, là loại vaccine được sử dụng rất thuận lợi theo đường uống;

- Vaccine bất hoạt (IPV: Inactivated Polio Vaccine) còn gọi là vaccine Salk, là loại vaccine sử dụng bằng đường tiêm.

Sử dụng vaccine Sabin (OPV) uống phòng bệnh bại liệt theo lịch của chương trình tiêm chủng mở rộng. Thường dùng 3 lần theo lịch cùng với vaccine bạch hầu, ho gà, uốn ván vào lúc trẻ được 2 tháng tuổi,  3 tháng tuổi và 4 tháng tuổi. Chỉ dùng vaccine bại liệt tiêm cho các đối tượng trẻ không uống được vaccine Sabin.

  

Bảo Trân
(Tổng hợp)